Kết quả 1 đến 9 của 9

Chủ đề: Trung thu 2008

  1. #1
    Ngày tham gia
    Oct 2009
    Bài viết
    866
    Cảm ơn / Thích

    Mặc định Trung thu 2008

    Mọi người đang háo hức chuẩn bị cho Trung thu năm nay rùi, nhộn nhịp ghê.

    Các bạn cố gắng thu xếp thời gian để tham gia công tác chuẩn bị cho khí thế nha.


    Nhóm làm đèn ông sao sẽ tập trung ở nhà Mây để "đánh vật" với chiếc đèn ông sao to tổ bố.
    Nam sẽ lo việc làm khung, Nữ sẽ dán giấy và trang trí.


    Các bạn tiếp tục đóng góp ý tưởng cho nội dung buổi vui Tết Trung thu tại topic này nha !



    Trung thu năm ngoái để lại rất nhiều ấn tượng cho các thành viên, chúng ta cùng cố gắng để Trung Thu năm nay sẽ vui hơn nữa vì năm nay chúng ta có đông thành viên tham gia hơn năm ngoái rất nhiều, địa điểm lại rộng rãi thoải mái hơn...
    Hãy để đôi chân lên tiếng !

    Bác Khách viếng thăm chăm chỉ luyện tập vào nhé!

  2. #2
    Ngày tham gia
    Oct 2009
    Bài viết
    866
    Cảm ơn / Thích

    Mặc định

    Sự tích Tết Trung Thu Tết Trung Thu vào rằm tháng Tám âm lịch là ngày tết truyền thống của một số quốc gia ở Châu Á như Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn và Nhật Bản.

    Tính theo âm lich, mỗi năm có 4 mùa : Xuân, Hạ, Thu, Đông, mỗi mùa có 3 tháng. Tháng 8 là tháng thứ 2 của mùa thu, ngày giữa tháng là Rằm tháng Tám được gọi là Tết Trung Thu.

    Hàng năm, người dân các nước Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn và Nhật Bổn đều làm bánh để ăn Tết Trung Thu, thưởng thức trăng tròn và đoàn tụ với người thân trong gia đình. Bánh Trung Thu của người Việt và người Hoa cùng một loai. Đại Hàn và Nhật Bản làm loại bánh khác.

    Cội nguồn Tết Trung Thu

    Theo truyền thuyết, Tết Trung Thu có từ vài ba ngàn năm nay. Người Trung Hoa thời cổ đại sống bằng nghề chăn nuôi và trồng trọt. Suốt mùa hè trời nắng ấm, người dân chăn nuôi và săn bắn dễ dàng, đầu tháng 8 lại thu hoạch nông sản phẩm, đến rằm tháng 8 bầu trời xanh biếc, trăng rằm trong sáng, cả nhà vui vẻ đoàn tụ, tượng trưng cho " trời và đất hợp nhất", nên mới có Tết Trung Thu. Thời đó, Tết Trung Thu đơn thuần là ngày lễ cúng thần nông, chỉ có cơm rượu, không có các loại bánh như ngày nay.

    Người Trung Hoa cổ đại cho rằng Tết Trung Thu bắt nguồn từ thời Xuân Thu. Tuy vậy, trước đờ Đường văn tự chưa phát triển, sử sách viết về Tết Trung Thu không nhiều lắm. Từ đời Đường trở đi, nhiều nhà thơ hoặc văn nhân viết những bài thơ hay tác phẩm về Tết Trung Thu, người đời sau mới biết được truyền thuyết và tập tục của nó. Từ đó Tết Trung Thu trở thành ngày lễ cố định hàng năm.

    Sách xưa chép rằng, nhân một đêm rằm tháng tám, khi cùng các quan ngắm trăng, vua Đường ao-ước được lên thăm cung trăng một lần cho biết. Pháp-sư Diệu Pháp Thiên (có sách chép là Lã Công Viên) tâu xin làm phép đưa vua lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Minh Hoàng được chúa tiên tiếp rước, bày tiệc đãi đằng và cho hàng trăm tiên nữ xinh tươi mặc áo lụa mỏng nhiều màu sắc rực rỡ, tay cầm tấm lụa trắng tung múa trên sân, vừa múa vừa hát, gọi là khúc Nghê-Thường vũ y. Vua Đường thích quá; nhờ có khiếu thẩm âm nên vừa trầm trồ khen ngợi vừa lẩm nhẩm học thuộc lòng bài hát và điệu múa mong đem về hoàng cung bày cho các cung nữ trình diễn. Cuối năm đó, quan Tiết Độ Sứ cai trị xứ Tây Lương mang về triều tiến dâng một đoàn vũ nữ với điệu múa Bà-la-môn. Vua thấy điệu múa có nhiều chỗ giống Nghê-Thường vũ y, liền chỉnh đốn hai bài hát và hai điệu làm thành Nghê-Thường vũ y khúc. Về sau các quan cũng bắt chước vua mang điệu múa hát về các phiên trấn xa xôi nơi họ cai trị rồi dần dần phổ biến khắp dân gian. Tục ngắm trăng, xem ca múa sau biến thành thú vui chơi đêm rằm Trung Thu


    Tết Trung Thu lấy mặt trăng làm chủ đề, nên có nhiều truyền thuyết về mặt trăng. Ngày nay các phi hành gia từng đặt chân lên mặt trăng, thấy rõ cảnh hoang dã ớ chốn đó, nhưng truyền thuyết về mặt trăng vẫn in đậm vào tâm khảm ngưởi Trung Hoa hay người Việt Nam, người Đại Hàn và người Nhật Bản. Trong đó chuyện " Hằng Nga lên cung Trăng" được nhiều người thích nhất. Tương truyền rằng thời cổ đại xa xưa có 10 mặt trời xuất hiện, mang tai họa đến cho dân gian. Ngọc Hoàng Thượng Đế biết được tin đó vội sai đại thần Hậu Nghệ xuống phàm, trừ hại cho dân. Hậu Nghệ mang theo bà vợ xinh đẹp là Hằng Nga giáng trần, dùng nỏ thần bắn rơi chín mặt trời. Ngọc Hoàng giận Hậu Nghệ bắn rơi chính người con của ông, không cho trở về thiên đình. Tình cờ Hậu Nghệ được Vương Mẫu cho một lọ thuốc trường sinh bất tử, uống vào có thể bay lên thiên đình. Một hôm nhân lúc Hậu Nghệ đi vắng, Hằng Nga lấy trộm thuốc trường sinh bất tử nuốt vào bụng, thế là biến thành tiên nữ, cứ thế bay lên lẩn trốn trên cung trăng để tránh sự chê bai của các tiên nữ trên trời.

    Nhà thơ nổi tiếng đời Đường là Lý Thương Ẩn đã làm bài thơ tả Hằng Nga sau khi ăn trộm thuốc tiên phải trốn trên cung trăng nói lên tâm trạng của những kẻ làm những việc sai trái lúc nào cũng tự trách mình

    Hằng Nga

    Vân mẫu bình phong chúc ảnh thâm
    Trường hà tiệm lạc, Hiểu tính trầm
    Hằng Nga ưng hối thâu linh dược
    Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm

    Dịch nghĩa

    Ánh đuốc soi vào tấm bình phong Vân Mẫu
    Sông Ngân gần lặn, sao Mai cũng chìm
    Hằng Nga hối hận vì uống trộm thuốc tiên
    Biển trời xanh biếc đêm đêm phiền muộn.

    Dịch thơ

    Bình phong Vân Mẫu ánh đuốc soi
    Sông Ngân gần lặn, sao Mai rơi
    Hằng Nga hối hận trộm thuốc uống
    Biển trời xanh lòng thêm nhoi nhói

    Đối với người Việt Nam thời cổ đại, Tết Trung Thu được diễn tả trong tục lệ : "Ban ngày làm cỗ cúng tiên, tối đến bày cỗ ngắm chị Hằng". Lễ vật hàng đầu là bánh mặt trăng, ngày nay gọi là bánh Trung Thu, và nhiều thứ bánh nhuộm các màu sắc xanh đỏ tím vàng cũng như hoa quả. Con gái thị thành thì thi tài gọt đu đủ thành các loại hoa, nặn bột làm con giống: Trâu bò, lợn gà, tôm cá trông thật là bắt mắt.

    Theo sử sách, Tết Trung Thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, từng được khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, là một trong những Trống Đồng Đông Sơn có kích thước to lớn, hình dáng cổ kính, tập trung hoa văn phong phú nhất. Tết Trung Thu cũng chính thức được tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Theo "Tang Thương Ngẫu Lục", tác phẩm chữ Hán của 2 nhà văn Việt Nam Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án viết khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, thời vua Lê chúa Trịnh, Tết Trung Thu được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ chúa. P.Giran, học giả người Pháp cũng từng viết trong " Magie et Religions Annamites, Paris: Challamet, 1912" về Tết Trung Thu. Theo ông, rằm tháng 8 mặt trăng đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên dân gian làm lễ mở hội mừng trăng.

    Theo phong tục Việt Nam, vào dịp Tết Trung Thu, cha mẹ bầy cỗ cho các con để đón trăng rằm. Các vị mua và làm đủ các loại đèn lồng thắp bằng nến treo trong nhà hoặc cho các con mang đi rước đèn cùng bè bạn. Cỗ mừng Tết Trung Thu gồm : bánh Trung Thu, các loại bánh kẹo khác, trái cây... nhiều hay ít tùy hoàn cảnh của mỗi gia đình.

    Trong văn học nghệ thuật có nhiều tác phẩm thơ ca, hội họa, âm nhạc miêu tả Tết Trung Thu, trong đó có bài thơ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu :

    Có bầu có bạn can chi tủi
    Cùng gió cùng mây thế mới vui
    Rồi cứ mỗi năm rằm tháng Tám
    Tựa nhau trông xuống thế gian cười

    Người Đại Hàn gọi Tết Trung Thu là ngày hội Chosuk. Trong dịp vui mừng của ngày hội này, người dân Đại Hàn thường bầy tỏ lòng biết ơn của mình đối với Thượng Đế cho họ được mùa, nên đã nghỉ ngơi vui chơi trong 3 ngày. Trước đây giao thông chưa thuận tiện, vào ngày hội Chosuk, những người buôn bán làm ăn ở thành phố thường về quê nhà thăm bà con họ hàng thân thích, những người sống ở quê nhà thì tổ chức hội hè như người Việt chúng ta đón mừng ngày Tết Âm Lịch. Trước ngày hội Chosuk một tháng, các công ty thương mại lớn ở Đại Hàn thường giảm giá hàng cho khách mua về làm lễ vật tặng nhau. Trong ngày hội Chosuk, người Đại Hàn ăn loại bánh làm bằng bột nếp và đậu xanh trộn với đường, họ gọi là "songpyon". Dịp này thanh thiếu nhi Đại Hàn thích nhẩy bài "Kang Kang Su Vol Lae"

    Rằm tháng 8 người Nhật Bản tổ chức ngày hội Hounen Odori (Hounen có nghĩa là hạnh phúc và giầu có, Odori có nghĩa là nhẩy múa). Dịp này họ thường ra sau vườn hoặc ngồi trước cửa ngắm trăng và ăn mừng ngày hội Hounen Odori bằng loại bánh hình cái gối làm bằng gạo (rice dumplins) người Nhật gọi là "Tsukimi dango"

    Bánh Trung Thu

    Nói đến Tết Trung Thu không thể không nói đến bánh Trung Thu. Tại sao rằm tháng 8 lại có tập tục làm bánh Trung Thu tế lễ hoặc thưởng thức? Bánh Trung Thu bắt nguồn từ loại bánh bột mì thời cổ đại. Cách đây trên 3,000 năm, người dân vùng Triết Giang làm loại bánh ngoài vỏ là bột mì, phía trong là nhân đường để tế lễ. Người thời Hán đưa hạt đào, hạt vừng và đậu phụng từ Tây Vực về, thế là xuất hiện loại bánh ngon hơn, tuy mặt ngoài vẫn bột mì nhưng nhân làm bằng hạt đào, mè hoặc đậu phụng. Về sau, bánh Trung Thu đều được cải tiến qua các triều đại. Đầu thời Minh sử sách có ghi " Mười lăm tháng Tám là Trung Thu" người dân trao tặng bánh Trung Thu để chúc nhau đoàn tụ và có cuộc sống bình yên. Còn có câu chuyện khác là Chu Nguyên Chương cuối thời Nguyên lợi dụng phong tục Tết Trung Thu trao bánh cho nhau, sai quân nhét vào bánh mảnh giấy ghi ngày khởi nghĩa để thống nhất hành động, kết quả tiêu diệt được nhà Nguyên, dựng nên nhà Minh. Từ đó bánh Trung Thu ngoài phong tục còn mang thêm ý nghĩ chính trị.

    Ngoài ra bánh Trung Thu còn tượng trưng cho đoàn viên. Phàm là con cháu Tam Hoàng Ngũ Đế (vua Trung Hoa thời cổ đại) dù xa quê hương đến mấy, khi nhìn và thưởng thức bánh Trung Thu cũng không sao quên được cội nguồn và người thân.

    Từ ngày có Tết Trung Thu đến nay, bánh Trung Thu được phát triển theo từng giai đọan lịch sử. Bởi vậy người Trung Hoa có câu :
    Niên niên Trung Thu minh nguyệt dạ
    Tuế tuế nguyệt bính hữu bất đồng
    (Năm nào Trung Thu trăng cũng sáng
    Tuổi nào cái bánh cũng khác nhau)
    Hãy để đôi chân lên tiếng !

    Bác Khách viếng thăm chăm chỉ luyện tập vào nhé!

  3. #3
    Ngày tham gia
    Oct 2009
    Bài viết
    866
    Cảm ơn / Thích

    Mặc định

    Sự tích chị Hằng Nga Sự tích chị Hằng Nga
    Tương truyền, vào thời xa xưa, trên trời xuất hiện mười ông mặt trời, cùng chiếu xuống mặt đất nóng đến bốc khói, biển hồ khô cạn, người dân gần như không thể sống nổi. Chuyện này đã làm kinh động đến một anh hùng tên là Hậu Nghệ. Anh đã trèo lên đỉnh núi Côn Lôn, dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời. Hậu Nghệ đã lập nên thần công cái thế, nhận được sự tôn kính và yêu mến của mọi người, rất nhiều chí sĩ mộ danh đã tìm đến tầm sư học đạo, trong đó có Bồng Mông là một kẻ tâm thuật bất chính.

    Không lâu sau, Hậu Nghệ lấy một người vợ xinh đẹp, tốt bụng, tên là Hằng Nga. Ngoài dạy học săn bắn, cả ngày Hậu Nghệ luôn ở bên cạnh vợ, mọi người đều ngưỡng mộ đôi vợ chồng trai tài gái sắc này.

    Một hôm, Hậu Nghệ đến núi Côn Lôn thăm bạn, trên đường tình cờ gặp được Vương mẫu nương nương đi ngang qua, bèn xin Vương mẫu thuốc trường sinh bất tử. Nghe nói, uống thuốc này vào, sẽ lập tức được bay lên trời thành tiên. Nhưng Hậu Nghệ không nỡ rời xa vợ hiền, đành tạm thời đưa thuốc bất tử cho Hằng Nga cất giữ. Hằng Nga cất thuốc vào hộp đựng gương lược của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy.

    Ba ngày sau, Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn, Bồng Mông với tâm địa xấu xa đã giả vờ lâm bệnh, xin ở lại. Đợi Hậu Nghệ dẫn các học trò đi không lâu, Bồng Mông tay cầm bảo kiếm, đột nhập vào hậu viện, ép Hằng Nga phải đưa ra thuốc bất tử. Hằng Nga biết mình không phải là đối thủ của Bồng Mông, trong lúc nguy cấp đã vội vàng mở hộp gương lược, lấy thuốc bất tử ra và uống hết. Hằng Nga uống thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và bay lên trời. Nhưng do Hằng Nga còn nhớ chồng, nên chỉ bay đến mặt trăng là nơi gần với nhân gian nhất rồi trở thành tiên.

    Tối hôm đó, khi Hậu Nghệ về đến nhà, các thị nữ vừa khóc vừa kể lại câu chuyện xảy ra lúc sáng. Hậu Nghệ vừa lo vừa giận, đã rút kiếm tìm giết nghịch đồ, nhưng Bồng Mông đã trốn đi từ lâu. Hậu Nghệ nổi giận nhưng chỉ biết vỗ ngực giậm chân kêu khóc. Trong lúc đau khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ lên trời đêm gọi tên vợ hiền. Khi đó, anh kinh ngạc phát hiện ra, trăng hôm nay đặc biệt sáng ngời, mà còn có thêm một bóng người cử động trông giống Hằng Nga. Hậu Nghệ vội sai người đến hậu hoa viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó những món ăn và trái cây mà bình thường Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng đang nhớ đến mình.

    Sau khi mọi người nghe tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, đều đã lần lượt bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu được truyền đi trong dân gian.
    Hãy để đôi chân lên tiếng !

    Bác Khách viếng thăm chăm chỉ luyện tập vào nhé!

  4. #4
    Ngày tham gia
    Oct 2009
    Bài viết
    866
    Cảm ơn / Thích

    Mặc định

    Sự tích "Đèn kéo quân" Sự tích "Đèn kéo quân"




    Ngày xưa, gần đến dịp tết Trung thu, theo lệnh Vua, dân chúng nô nức thi nhau chế ra những chiếc đèn kỳ lạ nhưng không có chiếc đèn nào làm cho vua vừa ý. Bấy giờ, có một nông dân nghèo khó tên là Lục Đức mồ côi cha, ăn ở với mẹ rất hiếu thảo. Một hôm nằm mơ, Lục Đức thấy một vị thần râu tóc bạc phơ hiện ra phán rằng: "Ta là Thái Thượng Lãn Quân, thấy nhà ngươi nghèo khó nhưng ăn ở hiếu thảo với mẹ, vậy ta bày cho ngươi cách làm chiếc đèn dâng Vua".

    Hôm sau theo lời dặn của Thần, Lục Đức cùng mẹ lấy những thân trúc trắng cùng giấy màu để làm chiếc đèn. Thời gian qua mau, khi chiếc đèn làm xong là ngày rằm tháng 8 cũng vừa đến. Chàng vui mừng cùng mẹ đem chiếc đèn vào kinh thành dâng vua. Nhà vua xem, thấy chiếc đèn vừa lạ, vừa nhiều màu sắc lại biết chuyển động nên rất hài lòng. Khi Vua hỏi ý nghĩa của chiếc đèn, Lục Đức theo lời Thần tâu rằng: "Thưa bệ hạ, thân trúc ở giữa đèn là biểu hiện trục khôn, cái chong chóng quay sáu mặt biểu tượng cho sáu cá tính của con người: thương, ghét, giận, buồn, vui, hờn. Cái chong chóng quay luôn luôn, tượng trưng cho con người hay thay đổi cũng có căn do, đó là đạo làm người. Chong chóng quay luôn cũng nhờ ánh đèn soi sáng, cũng như con người tốt lành cũng nhờ đạo đức. Sáu mặt của chiếc đèn làm bằng giấy tươi sáng biểu hiện cá tính của con người".

    Vua truyền đem đèn cho dân chúng cùng xem. Đèn đốt lên làm quay chong chóng. Hiện lên sáu màu sắc rực rỡ là hình ảnh vua, quan, người, ngựa nối đuôi nhau. Tất cả những hình nhân trên đèn được làm bằng giấy. Vua ban thưởng cho mẹ con Lục Đức rất hậu và phong làm Vạn Hộ Hầu.

    Từ đó, mối khi đến Tết Trung thu, nhớ lại sự tích người con hiếu thảo Lục Đức, dân chúng đua nhau bắt chước chàng làm nên những chiếc đèn màu rực rỡ gọi là đèn kéo quân.
    Hãy để đôi chân lên tiếng !

    Bác Khách viếng thăm chăm chỉ luyện tập vào nhé!

  5. #5
    Ngày tham gia
    Oct 2009
    Bài viết
    866
    Cảm ơn / Thích

    Mặc định

    Sự tích bánh trung thu SỰ TÍCH BÁNH TRUNG THU

    Bánh trung thu tượng trưng cho sự đoàn viên, là thứ không thể thiếu để cúng trăng và thổ địa công vào mỗi mùa Trung thu. Phong tục ăn bánh trung thu vào Tết Trung thu bắt đầu từ cuối đời nhà Nguyên bên Trung Quốc đến nay.

    Tương truyền vào thời đó, người Trung Nguyên không chịu nổi ách thống trị của người Mông Cổ, những người có chí khí đều muốn khởi nghĩa chống nhà Nguyên. Để tập hợp được các lực lượng đấu tranh, nhưng trong điều kiện không thể truyền tin đi, Lưu Bá Ôn đã nghĩ ra một cách truyền tin rộng rãi và bảo đảm, đó là kêu gọi mọi người mua bánh trung thu ăn vào Tết Trung thu để tránh họa. Sau khi mọi người mua bánh về và cắt ra, nhìn thấy bên trong có giấu một mảnh giấy viết “đêm 15 tháng 8 khởi nghĩa”, nhờ vậy người dân đã nhiệt liệt hưởng ứng, và lật đổ được nhà Nguyên. Cũng từ đó, bánh trung thu đã trở thành một món ăn không thể thiếu vào mỗi Tết Trung thu.
    Hãy để đôi chân lên tiếng !

    Bác Khách viếng thăm chăm chỉ luyện tập vào nhé!

  6. #6
    Ngày tham gia
    Oct 2009
    Bài viết
    866
    Cảm ơn / Thích

    Mặc định

    Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
    Thả trâu ăn lúa gọi cha ồi ồi
    Cha còn cắt cỏ trên trời
    Mẹ còn cỡi ngựa đi mời quan viên
    Ông thời cầm bút cầm nghiên
    Bà thời cầm tiền đi chuộc lá đa.
    Ca Dao


    - o O o -

    Ngày xưa ở một miền nọ có một người tiều phu tên là Cuội. Một hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu tìm cây mà chặt. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có bốn con cọp con đang vờn nhau. Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao. Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về.
    Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Mầu nhiệm làm sao, mớm vừa xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình kể lại đầu đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên:
    - Trời ơi! Cây này chính là cây có phép "cải tử hoàn sinh" đây. Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó!
    Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong.
    Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi.
    Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn.
    Một lần khác, có lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội, vật nài xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội.
    Vợ chồng Cuội sống với nhau thuận hòa, êm ấm thì thốt nhiên một hôm, trong khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được.
    Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Cuội chưa từng làm thế bao giờ, nhưng cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó, chó cũng sống lại. Vợ với chồng, người với vật lại càng quấn quít với nhau hơn xưa.
    Nhưng cũng từ đấy, tính nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: "Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Ðông, cây dông lên trời!". Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú gan, vừa nghe dặn xong đã quên biến ngay.
    Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào gốc cây quý mà đái. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời.
    Vừa lúc đó thì Cuội về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng.
    Từ đấy Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển có một lá. Bọn cá heo đã chực sẵn, khi lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy, coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc loại chúng. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa....
    Hãy để đôi chân lên tiếng !

    Bác Khách viếng thăm chăm chỉ luyện tập vào nhé!

  7. #7
    Ngày tham gia
    Oct 2009
    Bài viết
    866
    Cảm ơn / Thích

    Mặc định

    Ảnh Trung Thu 2008




    Hãy để đôi chân lên tiếng !

    Bác Khách viếng thăm chăm chỉ luyện tập vào nhé!

  8. #8
    Ngày tham gia
    Oct 2009
    Bài viết
    866
    Cảm ơn / Thích

    Mặc định





















    Hãy để đôi chân lên tiếng !

    Bác Khách viếng thăm chăm chỉ luyện tập vào nhé!

  9. #9
    Ngày tham gia
    Oct 2009
    Bài viết
    866
    Cảm ơn / Thích

    Mặc định











    Hãy để đôi chân lên tiếng !

    Bác Khách viếng thăm chăm chỉ luyện tập vào nhé!

Các Chủ đề tương tự

  1. Kế hoạch tổ chức Trung Thu 2012
    Bởi Lead trong diễn đàn Tâm tình - Ăn uống - Vui chơi
    Trả lời: 0
    Bài viết cuối: 20-09-2012, 10:54 AM
  2. Móng Cái + Trung Quốc
    Bởi Lead trong diễn đàn Hỉnh ảnh
    Trả lời: 10
    Bài viết cuối: 04-01-2011, 05:25 PM
  3. Trung Thu 2010
    Bởi Lead trong diễn đàn Tâm tình - Ăn uống - Vui chơi
    Trả lời: 4
    Bài viết cuối: 17-09-2010, 11:41 PM
  4. Trung thu 2007
    Bởi haiduongdancesport trong diễn đàn Tâm tình - Ăn uống - Vui chơi
    Trả lời: 1
    Bài viết cuối: 18-10-2009, 06:22 PM
  5. Giải Salsa Mùa Thu ASC 2008 (26/12/2008)
    Bởi haiduongdancesport trong diễn đàn TIN TỨC TRONG NƯỚC - THẾ GIỚI
    Trả lời: 0
    Bài viết cuối: 18-10-2009, 12:22 AM

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •