Điều luật thứ nhất quy định về cách chấm điểm của các giám khảo trong các cuộc thi đấu loại (bao gồm cả bán kết)
Điều luật thứ 2 đến thứ 4 quy định về cách chấm điểm và phân thứ hạng trong các cuộc thi chung kết.
Điều luật thứ 5 đến thứ 8 quy định về cách thức xác định các kết quả của các thành viên BGK đối với các đôi tham dự trong từng vũ điệu riêng biệt.
Điều luật thứ 9 đến 11 quy định về cách thức xác định kết quả để phân ngôi thứ đối với các đôi tham dự trong tất cả các vũ điệu.
Điều luật 1 : Số lượng các đôi cần chọn ra trong mỗi vòng đấu để đi tiếp vào vòng sau được xác định bởi Trưởng ban GK ( thường là 2/3 hoặc không ít hơn ½ số lượng đôi tham dự). Theo quyết định đó, trong mỗi vũ điệu, mỗi thành viên BGK phải chọn được số lượng các đôi đi tiếp vào vòng sau.
Thường mỗi thành viên trong BGK lựa chọn theo nguyên tắc “được” và “không được”, không cho phép một quyết định trung gian nào (“được” ở đây có nghĩa là được đi tiếp vào vòng sau và “không được” có nghĩa là bị loại). Như vậy những đôi có được nhiều điểm “được” sẽ đi tiếp vào vòng sau. Trong quá trình thi đấu, có thể sẽ xảy ra tình huống một số đôi nhảy có cùng số điểm như nhau để cùng được phép vào thi đấu ở vòng sau, nhưng nếu cho phép họ vào vòng sau sẽ làm cho số lượng các đôi thi ở vòng sau vượt quá quy định cho trước. Trong trường hợp này, nhà tổ chức và BGK phải đi tới quyết định : hoặc cho phép tất cả các đôi có số điểm như nhau được đi tiếp vào vòng sau hoặc loại tất cả các đôi này. Không cho phép thi đấu lại.
Điều luật 2 : Trong cuộc thi chung kết, mỗi giám khảo phải phải đưa ra kết luận về ngôi thứ cho mỗi cặp nhảy tuỳ theo mức độ tài năng của họ trong từng vũ điệu.
Điều luật 3 : Trong mỗi vũ điệu, theo quan điểm của mỗi giám khảo cặp nhảy tốt nhất sẽ được xếp thứ nhất, sau đó là thứ tự các cặp nhảy khác. Thường trong mỗi vòng chung kết có 6-8 đôi tham dự.
Điều luật 4 : Trong cuộc thi chung kết giám khảo không được phép đánh giá cùng một thứ hạng cho hai hoặc hơn hai cặp nhảy. ( có nghĩa là giám khảo không được phép đánh giá hai hoặc ba đôi nhảy ở cùng một thứ hạng)
Điều luật 5 : Điều luật này được sử dụng khi cặp nhảy nhận được sự đánh giá về một thứ hạng nào đó của đa số các giám khảo (không ít hơn 3 giám khảo trong tổng số 5 giám khảo, không ít hơn 4 giám khảo trong tổng số 6 hoặc 7 giám khảo, không ít hơn 5 giám khảo trong tổng số 8 hoặc 9 giám khảo vv...), điều này được xác định là đa số tuyệt đối trong các cột dọc “số lượng vị trí”.
Phần bảng “số lượng vị trí” được điền theo thứ tự cột từ trên xuống dưới và hàng từ trái sang phải, không được bỏ qua bất kỳ hàng và cột nào.
Nếu trong cột dọc không có cặp nhảy nào lấy được sự động thuận của đa số giám khảo thì phải chuyển sang xem xét ở cột dọc tiếp theo tính từ trái sang phải.
Khi vị trí xếp hạng cho một cặp nhảy cặp nhảy đã được xác định (có đa số đồng thuận và không có tranh chấp ngôi thứ) thì có thể dừng việc theo dõi để điền vào bảng “số lượng vị trí”.
Điều luật 6 : Điều luật này được sử dụng khi có 2 hoặc nhiều hơn các cặp cùng đa số đồng thuận , và đa số đồng thuận này không bằng nhau cho một vị trí nào đó. Trong trường hợp này, đôi nhảy có “số lượng vị trí” trong bảng cao hơn sẽ được xếp hạng cao hơn, theo thứ tự giảm dần.
Cặp 24 : chiếm vị trí thứ nhất trong điệu nhảy vì đạt đa số đồng thuận của BGK.
Cặp 45 : vị trí thứ hai, vì trong cột 1-2 đạt đa số đồng thuận (4) so với đôi 18 (3).
Cặp 18 : được suy luận để xếp thứ ba. Trong cột dọc 1-3 không có một đôi còn lại nào đạt được đa số đồng thuận của BGK.
Cặp 31 : được xếp thứ tư, vì đôi này chiếm được đa số đồng thuận cao hơn ở cột 1-4 (4) so với đôi số 7 (3).
Cặp 7 : đương nhiên sẽ chiếm vị trí thứ 5.
Cặp 48 : vị trí thứ 6 (theo cách suy luận thông thường và nếu xem bảng thì chúng ta cũng thấy đôi này được tất cả giám khảo đánh giá thấp nhất, cả 5 giám khảo đều cho vị trí 6).
Chúng ta sẽ cùng xem xét bảng theo dõi thi đấu sau đây trong trường hợp có 7 giám khảo A, B, C. D, E, F, G.
Cặp 23 : vị trí 1, vì ở cột dọc 1 đôi này được đa số đồng thuận 4 giám khảo đánh giá là số 1. Trong cột dọc 1-2, không có cặp nào chiếm được đa số đồng thuận.
3 cặp 12, 34, 56 : trong cột dọc 1-3 chúng ta thấy cả ba cặp này đều chiếm được đa số đồng thuậnd cho vị trí thứ 3, tuy nhiên đa số đồng thuận này không như nhau, do đó :
Cặp 12 : xếp thứ 2, vì cặp này có số lượng đa số đồng thuận cao hơn cả (6)
Cặp 34 : xếp thứ 3, vì trong hai đôi còn lại của cột 1-3, cặp này có đa số đồng thuận cao hơn (5).
Cặp 56 : theo suy luận, cặp này được xếp thứ 4.
Cặp 45 : Ở cột dọc 1-5 cặp này có đa số đồng thuận (4), do đó sẽ chiếm vị trí 5.
Cặp 67 : cặp còn lại này đương nhiên ở vị trí thứ 6.
Điều luật 7 : Điều luật này được vận dụng khi có hai hoặc hơn hai cặp có cùng đa số đồng thuận cho một vị trí nào đó và đa số đồng thuận này bằng nhau. trong trường hợp này cần phải đánh giá sâu hơn về các đa số đồng thuận. Để có thể phân chia ngôi thứ, chúng ta phải tính tổng của ngôi thứ mà các trọng tài đã đánh giá cho từng cặp, tổng này sẽ được thể hiện trong ngoặc đơn bên phải, ngay cạnh số lượng vị trí mà cặp nhảy đã đạt được.
7a). Điều này được vận dụng trong trường hợp các cặp nhảy có cùng đa số đồng thuận về một vị trí nào đó mà số lượng đa số đồng thuận này lại bằng nhau, chỉ khác nhau về tổng các vị trí. Nếu tổng này nhỏ thì cặp nhảy sẽ có thứ hạng cao và ngược lại, việc sắp xếp sẽ theo thứ tự tăng dần của tổng này.
Nhìn vào bảng theo dõi thi đấu trên, chúng ta thấy :
Cặp 26 : vị trí 1, vì cặp này chiếm được đa số đồng thuận của BGK (3).
Hai cặp 48 và 59 có được đa số đồng thuận ở vị trí thứ hai và đa số đồng thuận này ở cột 1-2 lại bằng nhau (cùng là 3). Tổng các vị trí của cặp 48 là 1+2+2 = 5, tổng các vị trí của cặp 59 là 2+2+2 = 6, do đó :
Cặp 48 : xếp vị trí 2, vì cặp này có tổng các vị trí nhỏ hơn (5)
Cặp 59 : xếp thứ 3, vì có tổng các vị trí lớn hơn (6). Tương tự như trên ta có thể xác định ngôi thứ của hai cặp 37 và 70.
7b). Điều này được vận dụng khi các cặp có cùng đa số đồng thuận, đa số đồng thuận này bằng nhau, và tổng các vị trí của họ cũng bằng nhau.
Trong trường hợp này, để có thể phân ngôi thứ, chúng ta buộc phải xem xét cột dọc ở thứ hạng thấp hơn liền kề, tính từ trái sang phải để xem xét tình hình của các đôi có tranh chấp và tạm “quên” các đôi còn lại.
Sau khi đã xác định được ngôi thứ cho các cặp có tranh chấp, chúng ta buộc phải lập lại trật tự xem xét này của các cột “số lượng vị trí”.
Trong cột dọc thứ nhất, không cặp nào có được đa số đồng thuận. Do đó để có thể xác định vị trí 1 chúng ta buộc phải xem xét ở cột dọc 1-2. Hai cặp (12 và 13) đều có cùng đa số đồng thuận (4). Tổng các vị trí mà các thành viên trong BGK đánh giá về họ cũng lại bằng nhau (1+2+2+2 = 7; 2+2+1+2 = 7). Chúng ta lai buộc phải đi tiếp sang cột 1-3, vì tại đây chúng ta mới có thể phân ngôi thứ cho họ.
Cặp 13 : vị trí 1, vì họ có ưu thế hơn ở trong cột này (6 so với 5)
Cặp 12 : sẽ là cặp tiếp theo, đứng thứ 2.
Cặp 11 chỉ có thể xếp ở vị trí tiếp theo vì không thể tranh chấp vị trí 1 và 2 với hai cặp vừa nêu trên.
Trong bảng theo dõi thi đấu trên, chúng ta thấy :
Hai cặp 38 và 60 đều đạt được đa số đồng thuận ở cột 1-2 và họ là hai cặp có tranh chấp ở vị trí thứ 2. Đa số đồng thuận của họ bằng nhau (cùng là 3), tổng các vị trí của họ cũng bằng nhau (cùng là 5).
Sang cột 1-3, tình trạng cũng tương tự như ở cột 1-2, tranh chấp vẫn chưa thể xem xét được vì các chỉ số để có thể phân biệt vẫn hoàn toàn giống nhau. Chúng ta chỉ có thể phân biệt ngôi thứ cho họ khi chuyển sang cột 1-5, tại đây thì tình hình đã thay đổi, tổng vị trí của cặp 38 nhỏ hơn (5) nên được xếp vị trí 2, đẩy cặp 60 có tổng vị trí lớn hơn (6) xuống vị trí 3.
Hai cặp 27 và 49 không được quyền tranh chấp các vị trí 2 và 3 với hai cặp 38 và 60, và họ chỉ có thể có thứ hạng ở sau hai cặp này. Vị trí của họ được xác định ở các cột 1-3 và 1-4, nhìn vào bảng ta dễ dàng thấy cặp 27 xép thứ 4 và cặp 49 xếp thứ 5.
Điều luật 8 : Điều luật này được vận dụng sau khi đã vận dụng tất cả các điều luật trên mà vẫn không thể phân chia được ngôi thứ cho các cặp nhảy.
Tình huống dường như khó có thể xảy ra này lại được gặp khá nhiều trong các cuộc thi khiêu vũ. Nó được định ra khi chúng ta đã vận dụng tất cả các khả năng để phân biệt mà vẫn không thể xác định được cao thấp.
Khi đó, các cặp nhảy có tất cả các chỉ số dùng để so sánh như nhau, và không còn một tiêu chí nào để có thể phân ngôi thứ cho họ. Trong trường hợp bất khả kháng này, các cặp nhảy được được quyết định sẽ có cùng ngôi thứ bằng cách tính tổng các vị trí mà họ tranh chấp rồi chia cho số cặp nhảy có tranh chấp này.
Cặp 16 và 19 có tranh chấp ở vị trí 3 và 4. Họ có tất cả các chỉ số so sánh như nhau suốt từ cột 1-3 tới cột 1-6 và không còn chỉ số nào để có thể phân chia ngôi thứ cho hai cặp này.
Hai cặp này được quyết định sẽ có chung ngôi thứ, cụ thể là lấy tổng vị trí 3 và 4 rồi chia đôi, và họ sẽ có cùng thứ hạng là 3.5.
Tiếp theo là các điều luật 9 đến 11, các điều luật này quy định việc tìm ra ngôi thứ cho các cặp nhảy trong toàn giải (nghĩa là tổng kết thành tích thi đấu của từng cặp nhảy trong giải, có thể là 5 điệu Latin, có thể là 5 điệu Standard, có thể là toàn năng 10 điệu) để tiến tới việc xác định ngôi thứ của họ cho toàn giải. Nguyên tắc của các điều luật này cũng tương tự như tôi đã trình bày ở trên trong việc xác định ngôi thứ của từng điệu.
Tài liệu này được dịch và soạn từ trang Web khiêu vũ thể thao của Nga theo đường truyền
http:// http://www.dancesport.ru/modules/mya...php?stopid=110.
Hãy để đôi chân lên tiếng !
Bác Khách viếng thăm chăm chỉ luyện tập vào nhé!